31/7/11

Chuỗi cung ứng và hệ lụy đối với công nghiệp hóa

(VEF.VN) - Toàn cầu hóa, mà biểu hiện của nó là các chuỗi cung ứng đem lại những mô hình kinh tế mới và tác động mạnh đến công nghiệp hóa (CNH) trong các nước đang phát triển. Các nước này bị bối rối vì CNH thì bế tắc nhưng chưa từ bỏ được do chưa tìm ra mô hình phát triển mới.

Nếu chần chừ lâu trong thế lưỡng nan này, họ có thể vừa thất bại trong CNH, vừa không bước kịp lên đoàn tàu kinh tế của thế giới.

Công nghiệp hóa

CNH xảy ra một phát triển tự nhiên ở Anh, Đức, Pháp, Mỹ... Nhưng khoảng sau thế chiến thứ 2, nhiều nước đã đưa ra các chính sách công nghiệp (industrial policy) để chủ động phát triển công nghiệp với "bàn tay hữu hình" (visible hand) của nhà nước. Các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô, coi CNH là mô hình phát triển tất yếu cho tất cả các nước. Nhiều nước áp dụng CNH mà không còn biết lý do nguyên thủy của nó và các yếu tố đã sinh ra nó và để nó hoạt động được. Bối cảnh mới đòi hỏi phải xem lại những yếu tố điều kiện cho CNH còn, mất, thay đổi thế nào và thoát ra khỏi tư duy "đường mòn", giáo điều, để thực sự tìm ra mô hình phát triển thích hợp.

CNH ở các nền kinh tế tập trung có những đặc trưng như: - Dựa vào vốn, coi vốn và tích lũy vốn là yếu tố chính trong CNH; - Lao động ở đây là lao động giản đơn, dựa trên sức lao động chứ chưa phải dựa trên tri thức; - Coi công nghiệp nặng là tất yếu và điều kiện tiền đề;

- Chú trọng tới tính cân đối quốc gia và khả năng tự lập của nền kinh tế, vv.

Trong bối cảnh lúc đó, nhà nước chủ động CNH nhờ sở hữu các ngành công nghiệp quan trọng, nắm hoàn toàn thị trường trong nước, bảo hộ thị trường nội địa, các mệnh lệnh hành chính..v..v.

Cạnh tranh giữa các nước dần được thay thế bằng cạnh tranh giữa các chuỗi cung ứng.

CNH ở các nước này dựa vào phát triển tất cả các ngành của nền kinh tế theo chiều dọc (vertical development) với tất cả công đoạn từ thiết kế, khai thác, sơ chế, sản xuất, kho vận, tiếp thị, bán hàng trong nước hay xuất khẩu. Điều này tạo ra một nền kinh tế có tính cân đối giữa các ngành (industies, sectors),độc lập, ít phụ thuộc bên ngoài. Với sự tập quyền cao, nhà nước có thể duy trì, cân đối được một nền kinh tế dựa trên nguyên nhiên, vật liệu, nhà sản xuất, người tiêu dùng... thuần túy từ các yếu tố nội địa (và người tiêu dùng cũng không còn sự lựa chọn nào khác ngoài các sản phẩm này).

Các chuỗi cung ứng toàn cầu

Từ đầu những năm 90 của thế kỷ 20, sự mở cửa hầu hết các thị trường với những định chế mới, sự bùng nổ các ứng dụng của công nghệ thông tin đã đem lại cho sản xuất - kinh doanh trên quy mô toàn cầu lợi nhuận vượt trội. Các quy trình, công đoạn sản xuất - kinh doanh của mọi sản phẩm, dịch vụ được thiết kế để trở nên vô cùng "lỏng lẻo", như những modules có thể tháo ra, lắp vào, ghép đoạn nọ với đoạn kia ở các lục địa khác nhau một cách dễ dàng, chứ không còn nằm trong một nước hay trong một công ty nữa.

Các công ty đa quốc gia ồ ạt cầu trúc lại tổ chức - hoạt động của mình trên bình diện toàn cầu, phần để tối ưu hóa quá trình sản xuất - kinh doanh, phần để chiếm thị trường nước ngoài. Một quá trình toàn cầu hóa sâu rộng diễn ra và kéo hầu hết các nước vào vòng xoáy của nó. Một quá trình tái thiết kế quy trình sản xuất - kinh doanh (hay chuỗi cung ứng) của toàn bộ các sản phẩm trên thế giới đã xảy ra. Người ta nói đến việc "vẽ" lại bản đồ công nghiệp của thế giới. Các chuỗi cung ứng trải rộng trên thế giới, xuyên qua các quốc gia, châu lục, như những lát cắt xẻ dọc các đường biên... Cạnh tranh giữa các nước dần được thay thế bằng cạnh tranh giữa các chuỗi cung ứng. Nhiều chuỗi cung ứng có "GDP" lớn hơn một số quốc gia phát triển.

Chuỗi cung ứng và hệ lụy đối với CNH ở các nước đang phát triển

Ngày nay, nhà nước thấy không nên (và cũng không thể) nắm độc quyền kinh tế. Họ không còn toàn quyền lực về sản xuất - kinh doanh, điều tiết thị trường, sở hữu, dòng vốn... Vì các tối ưu lấy từ phạm vi một nước không thể bằng các tối ưu trên quy mô thế giới nên các sản phẩm của nước "đóng cửa" sẽ không cạnh tranh nổi với sản phẩm của các chuỗi cung ứng đa quốc gia.

Khi mở cửa thị trường (điều không tránh khỏi), họ sẽ không bán được sản phẩm ngay ở nội thị. Các liên kết (linkages) giữa các bên tham gia thị trường là do mệnh lệnh mà có nên không còn mang tính ràng buộc bởi giá trị thực: mọi tương hỗ giá trị đã bị "méo mó" (distorted). Liên kết giữa khâu sản xuất với khâu kinh doanh trở nên "lỏng lẻo" hơn mối liên kết giữa các khâu này với chuỗi cung ứng bên ngoài. Các nhà sản xuất không thiết lập, chăm sóc các bên cung ứng nội địa (domestic suppliers), ví dụ nhà nông, và không thể trả giá cao hơn các chuỗi cung ứng bên ngoài nên không mua được nguyên vật liệu từ họ.

Chuỗi cung ứng bên ngoài với công nghệ tiên tiến, năng suất lao động cao hơn, kỹ năng quản lý chuỗi cung ứng chuyên nghiệp hơn nên sẽ chịu trả giá cao hơn cho nguyên vật liệu. Kết quả là: các chuỗi cung ứng nội địa đã bị "xé lẻ" bởi các chuỗi cung ứng nước ngoài. Hội nhập hay không trở thành tiêu chí quan trọng tạo ra sự khác biệt đáng kể về kinh tế giữa các các nước. Thuật ngữ "nhà nước quốc gia" (nation states) của Thomas Friedman xuất hiện phần nào từ bối cảnh này.

Các chuỗi cung ứng sẽ nhanh chóng tìm ra trên thế giới các công đoạn tốt hơn, rẻ hơn để ghép vào chuỗi của mình. Chuỗi cung ứng sẽ thuê làm các công đoạn (out-sourcing, thuê khoán ngoài) để sản phẩm của họ được rẻ nhất, tối đa lợi nhuận. Dù ta muốn hay không, các chuỗi cung ứng mạnh sẽ mua, thuê các công đoạn (hay nguyên liệu) rẻ nhất của ta. Lúc này, mọi doanh nghiệp, tư nhân hay nhà nước, sẽ chọn "bán" công đoạn cho nơi trả cao nhất.

Ta không làm trọn một sản phẩm (như đến nay vẫn làm) mà chỉ làm được một (vài) công đoạn mà ta làm tốt nhất.

Việc các tập đoàn kinh tế nhà nước, mở rộng kinh doanh sang các lĩnh vực béo bở nhưng không được nhà nước giao là ví dụ cụ thể. Các ưu đãi về CNH không thể đem lại lợi nhuận bằng đầu tư nước ngoài (FDI). Luật Doanh nghiệp không ngăn họ chọn lợi nhuận. Các ưu tiên về đất đai, vốn, cơ sỏ sản xuất,... cho những dự án CNH sẽ trở nên lãng phí và doanh nghiệp sẽ dùng cho việc tạo ra lợi nhuận cho riêng họ. Các hàng rào thuế nhập khẩu cao nhằm bảo hộ tnhà sản xuất nội địa, ôtô chẳng hạn, sẽ "nuôi béo" đầu tiên các doanh nghiệp FDI nước ngoài. Ngay cả khi nhà nước đầu tư xây nhà máy, mua công nghệ cho chương trình CNH thì doanh nghiệp cũng sẽ dùng các đầu tư này theo cách có lợi cho họ.

Việc mở rộng các chuỗi cung ứng ngoại chủ yếu là phát triển theo chiều ngang (horizontal development), tức là: không thêm các công đoạn vào chuỗi giá trị mà chỉ mở thêm cơ sở sản xuất hay tăng số lượng nhà cung ứng. Chỉ phát triển theo chiều ngang làm các nước không thiết lập được các ngành công nghiệp hoàn chỉnh như mục tiêu của CNH.

Ngoài ra, thay vì các ngành có mối liên kết, cân đối hợp lý với nhau, họ lại chỉ có những cơ sở kinh tế "lỗ chỗ", không đồng bộ, thậm chí không phải của mình, mà lại gắn với các chuỗi cung ứng bên ngoài. Kết quả ngành công nghiệp ôtô, thép, xi măng, thép, điện tử,... ở ta cho thấy rõ điều này. Hơn thế nữa, khoa học - công nghệ, đoạn đầu của chuỗi cung ứng và cái gốc của năng suất lao động, không thể được hoạch định, đầu tư thích đáng. Hậu quả điều này không nhãn tiền, nhưng sau 10-15 năm thì có muốn làm cũng đã lỡ.

Nhìn nhận các mô hình phát triển

Vậy cần mô hình phát triển nào? Đây là thách thức lớn với các nước đang phát triển, nhất là những nước cứng nhắc, không thích ứng kịp với biến đổi. Kinh tế thế giới đang trong quá trình Tái-Định-Hình. Đang có sự Chuyển-Đổi-Mô-Thức lớn về phát triển (paradigm shift). Các nước nhỏ đang phải tự mình tìm đường chứ không thể theo những bài học giáo điều như trước.

Toàn cầu hóa, công nghệ không chờ những người bảo thủ và sơ cứng, nhưng cũng mở ra những mô hình phát triển và cơ hội mới cho số đông nhân loại. Nếu tri kỷ, tri nhân và tri thời, người ta sẽ ít bị ràng buộc hơn vào những điều (tưởng như) bẩm sinh: tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, thậm chí phần nào cả bản ngã nữa. Con người có thêm quyền năng trong việc lựa chọn vận mệnh cho mình.

Trước hết, cần sớm chuyển nền kinh tế sang "chế độ an toàn" (Safe Mode) để duy trì tối thiểu. Chuyển từ định hướng tăng trưởng (kèm với nguy cơ đổ vỡ cao) sang nền kinh tế đủ dùng, tự cung cấp đủ (với tính khả thi cao).

Những nguồn lực dôi ra sau khi đã thu xếp đủ dùng sẽ được bố trí làm cho những chuỗi giá trị cao nhất có thể mà mình làm được. Phải biết mình làm công đoạn nào tốt? công đoạn đó có ở chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng nào? để làm được ta cần học việc thế nào? cách nào để tham gia chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng đó,..v..v. Ta có thể làm các chuỗi giá trị mới, dùng các nguyên vật liệu không phải do "nhà trồng", làm ra các sản phẩm còn xa lạ... Ta không làm những gì ta dùng, mà thế giới cần (với giá cao). Chắc là ta không làm trọn một sản phẩm (như đến nay vẫn làm) mà chỉ làm được một (vài) công đoạn mà ta làm tốt nhất.

Với tư duy logic khá, ta có lợi thế khi làm các công đoạn thâm dụng tri thức, nhiều tính toán, lập trình, phân tích-tổng hợp, kỹ năng thiết kế đơn giản, nhiều tính sáng tạo, sự nhanh trí,... Tỷ lệ giữa người làm nông nghiệp với số người phi nông nghiệp, giữa sản xuất vật chất với khối dịch vụ sẽ có thể không "cân đối" trong phạm vi quốc gia vì họ đã đã "gắn" vào các chuỗi cung ứng bên ngoài (mặc dù vẫn ở Việt Nam).

Tất cả những việc trên sẽ có hiệu quả nhất nếu được điều hành bởi nhà nước, đặc biệt trong việc kết hợp chuỗi cung ứng với phát triển vùng, tạo dựng các chùm (clusters) công nghiệp, công nghệ với tính tương tác cao. Việc sản xuất, gia công thuê khoán ngoài (Business Process Outsourcing, BPO) chủ yếu do các công ty tiến hành.

Nhưng ở nhiều nước phát triển, nhà nước phối hợp rất hiệu quả với tư nhân trong việc làm thuê khoán các công đoạn thâm dụng tri thức (Knowledge Process Outsourcing, KPO). Nếu bàn tay "hữu hình" không điều phối được thì chỉ xin không can thiệp, mà tạo hành lang pháp lý vị thị trường, ổn định kinh tế vĩ mô là đủ.

Cơn bão thực ra mới chỉ bắt đầu. Theo C. Fiorina, nguyên CEO của HP, đây chỉ là "Kết-Thúc của Sự-Bắt-Đầu. Nhân loại đang đi vào Sự-Kiện-Chính khi mà Công-Nghệ thực sự thay đổi mọi phương thức của Nhà-Nước, Xã-Hội và Cuộc-Sống".

Để tìm ra mô hình mới, thứ nhất cần Đổi Mới-Sáng Tạo. Thứ hai, nhưng lại là trước hết, cần đoạn tuyệt với những quan niệm giáo điều, không còn phù hợp, hay như J. Keynes nói "Cái khó không phải là có ý tưởng mới, mà là thoát ra khỏi tư duy cũ". Nhưng, cả hai đều do chính chúng ta.

_______________________

http://vef.vn/2011-07-22-chuoi-cung-ung-va-he-luy-doi-voi-cong-nghiep-hoa

(*) - Tác giả công tác tại Viện Chiến lược - Chính sách Khoa học - công nghệ, email: dtphong@most.gov.vn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét