http://vietnamnet.vn/giaoduc/2008/11/813501/
08:28' 14/11/2008 (GMT+7)
- "Thời gian biểu hiện thực hơn cho mục tiêu có trường ĐH top 200 của Việt Nam có lẽ sẽ là 2060 hoặc muộn hơn" - GS.TS Simon Marginson (Trung tâm Nghiên cứu Giáo dục ĐH ĐH Melbourne, Australia) cho biết khi trao đổi với VietNamNet bên lề hội thảo "Xếp hạng các trường ĐH: xu thế toàn cầu và các quan điểm" tổ chức ngày 13/11.
GS Simon Marginson
Việt Nam đã đặt ra mục tiêu đến 2020 có 1 trường ĐH lọt vào top 200 trường ĐH nổi tiếng thế giới. Ông nhìn nhận mục tiêu này như thế nào?
- Tôi tôn trọng quyết định của chính phủ đặt ra tiêu chuẩn thành tích cao hơn cho các trường ĐH nhưng tôi không rõ danh sách xếp hạng 200 trường hàng đầu nào được nói ở đây?
Xếp hạng 500 trường ĐH hàng đầu thế giới năm 2007, hội đồng đánh giá và kiểm định giáo dục đại học Đài Loan không xướng danh trường đại học nào của Việt Nam. Bảng xếp hạng phổ biến khác của Tạp chí Times Higher Education Supplement (THES) cũng chưa có tên của ĐH Việt Nam. Nhưng một số trường ĐH VN cũng đã "góp mặt" trong bảng xếp hạng Webometrics, dù khá khiêm tốn với vị trí của trường cao nhất là 1920...Theo ông, VN nên lọt vào danh sách nào?
-Xếp hạng của Webometrics có lợi cho các trường ĐH và quốc gia có hệ thống web mạnh.
Còn để được nằm trong top 200 theo bảng xếp hạng của THES thì cần có bộ tiêu chí khác. Bảng xếp hạng này có phần thiên vị cho các trường ĐH nghiên cứu lâu năm, đặc biệt là các trường tên tuổi quen thuộc như Oxford và Harvard hoặc thiên vị các trường làm maketing mạnh. Ít người nghĩ trường ĐH Chualalongkorn của Thái Lan thực sự nằm trong bảng 200 này. Tôi ngờ rằng Thái Lan đạt được mức xếp hạng này vì nước này được biết đến là 1 nước du lịch và BangKok là sân bay quan trọng và đó là cái thúc đẩy nhân tố công nhận. Có lẽ, nếu thực thi một chương trình du lịch học thuật, bao cấp cho các hiệu trường ĐH nước ngoài trong khách sạn 5 sao thì VN cũng có ĐH lọt vào bảng xếp hạng.
GS.TS Simon Margion tập trung nghiên cứu chính sách của chính phủ và nền kinh tế tri thức, giáo dục ĐH và toàn cầu hóa. Luận án tiến sĩ "các thị trường trong giáo dục ĐH" năm 1996 được ĐH Melbourne và Hiệp hội Nghiên cứu giáo dục Australia đánh giá là luận án tiến sĩ tốt nhất trong năm. Ông đã viết 6 cuốn sách về giáo dục, trong đó cuốn "Doanh nghiệp ĐH" viết cùng Mark Considine giành giải thưởng xuất bản của Hiệp hội nghiên cứu giáo dục Hoa Kỳ 2001.
Nếu xem mục tiêu " đến năm 2020 có 1 trường ĐH trong top 200" hướng tới nhu cầu thực của quốc gia với năng lực toàn cầu và phải có khả năng đạt được trong tương lai thì cần áp dụng bảng xếp hạng của Trường ĐH Giao thông Thượng Hải. Hệ thống xếp hạng này danh tiếng nhất vì các dữ liệu khách quan và sử dụng miễn phí. Các trường ĐH không thể gây ảnh hưởng bằng cách tính dữ liệu của riêng mình.
Và khả năng đạt được mục tiêu top 200 của bảng xếp hạng Giao thông ra sao?
- Để nổi bật trong bảng xếp hạng của trường ĐG Giao thông (TQ), cần có giải Nobel. Đa số trường trong top 200 đều có ít nhất một người đoạt giải Nobel. Các nước đang phát triển khó mà có những người đạt giải thưởng về khoa học và kinh tế. Còn giải thưởng Nobel về văn học và hoà bình thì không được tính.
Một tiêu chí khác của Giao thông là sự hiện diện của các nhà nghiên cứu HiCi - tức là được trích dẫn nhiều. Các trường ĐH của Mỹ có gần 4.000 nhà nghiên cứu HiCi. Ở châu Á thì Nhật Bản và Israel có một số lượng lớn nhà nghiên cứu HiCi. Để thu hút và giữ được các nhà nghiên cứu HiCi trong những năm sắp tới, VN có lẽ phải đưa ra mức lương gần với mức lương thế giới, sự hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, cả về nhân sự và thiết bị, cạnh tranh được trên phạm vi quốc tế.
Các tiêu chí khác liên quan tới công bố các bài báo khoa học trong tạp chí hàng đầu là Nature và Science và toàn bộ thành tích trong việc được trích dẫn. Chỉ với hơn 200 bài báo một năm, Việt Nam chưa sẵn sàng cạnh tranh được một cách nghiêm túc trên cơ sở công bố công trình và khối lượng được trích dẫn.
Từ năm 2000 - 2005, đầu tư vào nghiên cứu và phát triển ở Trung Quốc tăng 18,5% mỗi năm. Từ năm 1996 đến 2005, đầu tư cho lĩnh vực này tăng từ 0,57% lên 1,35% trong tổng số GDP. Năm 2006, Trung Quốc chi cho nghiên cứu và phát triển đứng thứ 2 thế giới. Trong 10 năm kể từ 1995, số báo cáo khoa học thường niên của nước này tăng lên từ 9.061 tới 41.596. Nhưng hiện tại, Trung Quốc chưa có trường nào trong top 200 dù đã "góp"18 trường top 500 như Bắc Kinh, Thanh Hoa, Nam Kinh...
Nếu đầu tư như Trung Quốc, thì sẽ mất khoảng 5-10 năm trước khi số công trình được công bố tăng mạnh và mất thêm một thập kỷ nữa để cho mọi người biết được việc trích dẫn.
Vậy theo phán đoán của ông, bao giờ Việt Nam cái đích "top 200" ?
- Theo tôi, có lẽ đến năm 2060 hoặc muộn hơn. Giả sử thực hiện ngay lập tức theo mức đầu tư của Trung Quốc và Hàn Quốc thì cũng không thể đạt kết quả xếp hạng trong top 200 của ĐH Giao thông vào năm 2020. Một mục tiêu thiết thực hơn, tuy rằng khó, là lọt vào top 500 của ĐH Giao thông vào năm 2025 hoặc 2030. Trong bảng xếp hạng của ĐH Giao thông hiện tại, có một số nước như Mexico, Brazil, Ấn Độ. Ấn Độ có GDP tính theo đầu người ở mức của VN. Nước này đã tập trung nguồn lực cho một số nhỏ các trường ĐH chất lượng cao.
Một cách cụ thể, những việc cần phải làm để đạt được đích này?
- Xây dựng một trường ĐH nghiên cứu hoặc nhóm nhỏ trường ĐH có lẽ là cái mà Việt Nam có thể làm để đảm bảo bước vào cuộc chơi kinh tế tri thức sớm hơn. Cần có chính sách đưa những người học lấy bằng tiến sĩ ở Mỹ và châu Âu về Việt Nam. Trả lương cho những giảng viên ưu tú với mức lương gần như của Mỹ để giữ chân họ và đối xử với giảng viên nước ngoài theo cái cách của ĐH quốc gia Singapore. Tuy nhiên, ngay cả Singapore cũng gặp khó khăn khi giữ người nước ngoài đủ lâu để có một tác động lâu dài đến năng lực nghiên cứu. Thứ hai, đổi mới từ gốc đến ngọn văn hoá quản lý chất lượng, đặc biệt là sự tự do học thuật. Người ta sẽ không thể sáng tạo được nếu chính sách rập khuôn.
- Cảm ơn ông!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét